Thứ Năm, 16 tháng 7, 2020

TẠNG THƯ SỐNG CHẾT

Đọc Tạng Thư Sống Chết như để chiêm nghiệm lại đời mình, dẫu biết rằng ai cũng có một cái kết như nhau. Đọc để làm mới đời sống tính thần của  mình trong khoảng thời gian còn lại trước khi cái kết nghiệt ngã kia ập đến!

Tôi trích lại những đoạn sau mà tôi cảm thấy thú vị, để thi thoảng nhẩn nha đọc lại, và suy ngẫm.

- Tôn giáo của tôi là sống và chết làm sao để khỏi ân hận.

- Sau khi thầy tôi chết, tôi được gần gũi Dudjom Rinpoche, một trong những thiền sư, hành giả mật giáo và Du già sư vĩ đại của thời cận đại. Một ngày khi thầy đang lái xe hơi xuyên nước Pháp cùng với vợ thầy, ngắm cảnh miền quê, họ đi ngang một khu nghĩa trang dài vừa mới sơn quét và trang trí hoa tươi.

Bà vợ thầy nói: - Rinpoche, ngài hãy xem mọi thứ ở Tây phương thật ngăn nắp sạch sẽ đến thế. Ngay tại những nơi người ta để thây chết cũng thật sạch không tì vết. Còn ở Đông phương mình, ngay nhà người ta ở cũng không đâu sạch bằng ở đây.

Thầy nói: - Ồ! Đúng thế; đây quả thực là một xứ văn minh. Họ có những ngôi nhà đẹp đến thế cho những xác chết. Nhưng bà không để ý sao? Họ cũng có những ngôi nhà tuyệt diệu cho những xác sống nữa chứ.

Mỗi khi nhớ lại câu chuyện ấy, tôi không khỏi nghĩ rằng cuộc đời thực trống rỗng vô vị làm sao, khi nó được căn cứ vào một niềm tin sai lạc về trường cửu và tương tục. Khi sống kiểu ấy thì chúng ta đã vô tình tự biến thành những cái xác sống, như thầy Dudjom Rinpoche đã nói.

Nhưng đấy là kiểu sống của phần đông chúng ta; chúng ta sống theo một kế hoạch đã định. Nhỏ thì được giáo dục. Lớn lên kiếm việc làm, rồi gặp một người nào đó, rồi kết hôn, rồi có con cái. Chúng ta mua một cái nhà, ráng làm ăn cho trúng mánh, mơ ước có một ngôi nhà ở miền quê hoặc thêm được một chiếc xe hơi. Vào dịp nghỉ thì đi du lịch xa cùng với bạn bè. Chúng ta dự định kế hoạch cho lúc về hưu. Những vấn đề trọng đại nhất mà một vài người trong chúng ta từng gặp phải chỉ là: không biết nên đi chơi đâu vào kỳ nghĩ tới, hoặc nên mời ai vào dịp lễ Giáng sinh. Cuộc đời ta thật đơn điệu, tầm thường, lặp đi lặp lại; ta phí cả một đời để theo đuổi những chuyện nhỏ nhen, bởi vì dường như ta không biết có cái gì hơn thế.

Nhịp điệu đời sống chúng ta rộn ràng tới nỗi ta không có thì giờ để nghĩ đến cái chết. Ta ém nhẹm những nỗi sợ hãi thầm kín của ta về vô thường bằng cách bao vây quanh mình thêm nhiều đồ đạc, của cải, tiện nghi, chỉ để tự thấy mình biến thành tên nô lệ cho chúng. Mọi thời giờ và năng lực của ta đều kiệt quệ chỉ vì phải bảo trì những thứ ấy. Chẳng bao lâu mục đích duy nhất của ta trên đời hóa ra chỉ là giữ cho mọi thứ ta sở hữu càng được bảo đảm an ninh càng tốt. Khi có biến chuyển gì xảy đến, ta tìm cách đối phó mau lẹ nhất, một giải pháp hiệu nghiệm tạm thời. Cứ thế đời ta tiếp tục trôi giạt cho đến khi một cơn trọng bệnh hay tai nạn nào đó lay ta ra khỏi cơn mê.

Cũng không hẳn là ta dành nhiều thì giờ hay suy nghĩ cho cuộc đời này. Hãy nghĩ đến những người đã làm việc bao nhiêu năm rồi phải hồi hưu, để thấy không biết mình phải làm gì cả, vì họ càng ngày càng già và tiến gần cái chết. Mặc dù ta luôn luôn hô hào phải thực tế, thực tế ở Tây phương có nghĩa là thiển cận một cách vô minh và thường ích kỷ. Sự tập trung thiển cận của chúng ta vào đời này và chỉ đời này mà thôi, chính là một ảo tưởng lớn, nguồn gốc của nền duy vật đen tối và phá hoại của thế giới ngày nay. Không ai bàn tới sự chết và đời sau, vì người ta có thói tin rằng chuyện ấy chỉ làm đình trệ cái gọi là "sự tiến bộ" của ta trên thế giới.

Nhưng nếu ước muốn sâu xa nhất của chúng ta quả là sống và tiếp tục sống, thì tại sao ta lại cả quyết một cách mù quáng rằng chết là hết chứ? Ít nhất cũng nên thử thám hiểm xem có thể có đời sau hay không đã chứ? Nếu quả thực chúng ta có óc thực nghiệm như ta tuyên bố, thì tại sao ta không khởi sự tự đặt câu hỏi cho mình một cách nghiêm chỉnh: "Tương lai thực sự của ta nằm ở đâu?" Chung quy, chẳng có mấy ai sống lâu trên trăm tuổi. Và sau thời gian đó là cả một thời gian vô tận trải dài, không được giải thích...

XEM TRỌNG CUỘC ĐỜI

Có lẽ chỉ có những người hiểu được tính mong manh của đời sống mới biết được sự sống quý báu ngần nào. Một lần, khi tôi dự hội thảo ở Anh quốc, phóng viên đài BBC phỏng vấn những người tham dự. Đồng thời họ cũng nói chuyện với một người phụ nữ sắp chết. Bà ta vô cùng hãi sợ, vì bà chưa từng nghĩ cái chết là thực có. Bây giờ bà đã biết. Bà chỉ có một thông điệp duy nhất cho những người chết sau bà, đó là: Hãy xem trọng sự sống và cái chết.

Xem trọng cuộc đời không có nghĩa phải bỏ cả đời mà tĩnh tọa tư duy như thể là ta đang ở trên Núi Tuyết hay như vào những ngày xưa tại Tây Tạng. Trong thế giới tân tiến, ta phải làm việc và kiếm sống, nhưng không nên vướng vào kiểu sống "chụp giật" không nhìn thấy một ý nghĩa sâu xa nào của cuộc đời. Công việc của ta là tìm một thế quân bình, trung đạo, không quá dấn mình vào những hoạt động và bận bịu ngoại vi, mà càng ngày càng làm cho cuộc sống của ta trở thành đơn giản. Chìa khóa để tìm ra một thể quân bình hạnh phúc cho đời sống hiện nay là tính giản dị.

Đó là ý nghĩa đích thực của giới luật ở trong đạo Phật. Tạng ngữ gọi giới luật là Tsul trim. Tsul có nghĩa là thích hợp, chính xác, và trim có nghĩa là quy luật hay cách thức, con đường. Vậy giới luật là làm cái gì thích hợp hay chính xác; ở trong một thời đại quá phức tạp như hiện nay, thì đó chính là sống giản dị.

Đời chúng ta là gì nếu không phải là cuộc luân vũ của những hình dạng phù du ấy? Há chẳng phải mọi sự luôn luôn thay đổi: Lá trên cành cây trong công viên, ánh sáng trong phòng bạn lúc đang xem sách này, những mùa, khí hậu, thời gian trong ngày, người qua lại trên đường. Còn bạn thì thế nào: Không phải mọi sự ta làm trong quá khứ bây giờ chỉ như một giấc mộng đó sao? Những bạn bè thuở bé, những chỗ ngày nhỏ ta thường lui tới, những quan niệm, ý tưởng mà có một thời ta đã say mê ấp ủ: Ta đã bỏ lại tất cả sau lưng. Bây giờ, trong giây phút này, bạn thấy sự đọc những trang sách này dường như rất thực. Nhưng rồi nó cũng chỉ còn là một ký ức.

SÁU NGƯỜI ĐI KHẮP THẾ GIAN

Một cuốn sách cuốn hút, đôi khi hồi hộp ly kì về niềm đam mê xê dịch của một nhóm bạn trẻ. Tác giả đã quá tham lam chăng khi đặt ra quá nhiều vấn đề về chiến tranh, về tôn giáo, về địa lý, về âm nhạc, về thân phận của tuổi trẻ, về sự dấn thân  vào 02 tập sách, có nhiều câu hỏi lớn ông tự trả lời bằng cách này hay cách khác, nhưng có nhiều vấn đề ông bỏ lửng cho độc giả tự tìm cho mình lời giải đáp về đời sống này.

Xuyên suốt những câu chuyện về cuộc đời của sáu thanh niên và cuộc hành trình của họ, tác giả vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về hiện thực đương thời. Đó là một thế giới sắp bùng nổ. Chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Trung Đông, nạn phân biệt chủng tộc, những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Phi, sự thất thế của những nhà lãnh đạo tư bản chủ nghĩa ở thuộc địa.
Mặc dù cuốn sách được viết từ thế kỷ trước, phần nhiều nội dung vẫn rất đúng với lứa tuổi hai mươi ngày nay, đặc biệt với những người đang lạc lõng giữa thế giới, đơn giản muốn tìm một chỗ đứng, nơi họ có thể hạnh phúc và gọi là nhà. Những nhân vật trong sách là những con người đã bị vỡ mộng vì xã hội, và đang nỗ lực xây dựng thế giới utopia (địa đàng trần gian) của riêng họ ở một miền đất khác, như những kẻ bỏ xứ, những kẻ lãng du và trôi dạt.

Ở đó, tác giả đã đưa ra nhiều quan niệm về nhân sinh quan qua nhiều nhân vật. Tôi ấn tượng mạnh về suy nghĩ của cặp vợ chồng người Thụy Điển Rolf và Inger về một triết lý sống vượt qua những lề lối truyền thống cổ hũ về giáo dục, hôn nhân, về sự hưởng thụ cuộc sống, họ chỉ cần 6 tháng làm việc thật sự trong 01 năm và họ có 06 tháng hưởng thụ cuộc sống tự do ở những nơi xa lạ mới mẻ, họ bác bỏ nền giáo dục coi trọng bằng cấp, bác bỏ chiến tranh, sự thăng tiến, cuộc sống ổn định nhàn tẻ trong những ngôi nhà rộng rãi, hay nhưng ảo tưởng về khoa học.

Nhưng đối với ông già Fairbank thì “vẫn phải cân nhắc những sự hài lòng mang tính bền vững của thế giới cũ kia, nơi đó ông tìm thấy nhiều niềm vui thú trong công việc vất vả, trong những thắng lợi phải đua tranh mới có được, các viện bảo tàng nghệ thuật, các tòa nhà cao tầng thiết kế đẹp, các bản giao hưởng của Beethoven, những ngôi nhà với lũ trẻ ngày một lớn khôn”.

Và sau cùng là Harvey Holt, một chuyên viên kỹ thuật viễn thông, một nhân vật đậm chất Mỹ mà tôi thần tượng. Đó là 01 kiểu người có thừa năng lực, thừa lòng dũng cảm hay lòng yêu nước nhưng không mù quáng. Anh có thể sống tốt ở bất cứ nơi đâu trên thế giới với chuyên môn vững vàng của mình mà không bợ đỡ bất cứ ai.

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2020

Tưởng tượng

Một ngày Chủ Nhật đẹp trời, tôi cùng các bạn nhỏ tạm rời xa phố thị một ngày để về vùng ngập mặn Vàm Sát Cần Giờ dã ngoại. Trước khi đi, tôi đã thuyết phục kèm dụ dỗ các bạn nhỏ rằng các bạn sẽ được đắm mình vào thiên nhiên, được chơi nhiều trò hấp dẫn. Bạn nhỏ của tôi tưởng tượng rằng mình sẽ đến một khu du lịch 5 sao hoành tráng có sảnh chờ mát lạnh và nhiều cô chú xinh đẹp đón chào, có khu biểu diễn xiếc cá sấu to lớn choáng ngợp như ở Thái Lan. Sau 2 giờ chạy xe chưa kể 1 giờ chờ qua phà Bình Khánh, chúng tôi cũng đến nơi. Khu du lịch còn hoang sơ và vắng khách, nhìn đâu cũng thấy rừng đước ngập mặn mênh mông bát ngát. Bạn nhỏ hơi thất vọng, thổ lộ rằng nơi đây không như con tưởng tượng trong tâm trí. Khu câu cá sấu cảm giác mạnh là một đầm nhỏ, vài chục con cá sấu già được nuôi thả bảo tồn, chờ chực táp những cần mồi phục vụ nhu cầu giải trí của du khách. Vài chục chú khỉ đuôi dài lang thang trên đường đi xuyên rừng, ngơ ngác ngắm nhìn lữ khách. Cái được duy nhất ở đây là không gian xanh rộng lớn đầy tiếng chim, không khí trong trẻo mát lành. Từ tháp canh cao ngút trong khu vườn chim, các bạn nhỏ được ngắm nhìn toàn cảnh khu rừng ngập mặn rộng lớn bạt ngàn, được thưởng thức tiếng chim văng vẳng bên tai kèm theo tiếng gió xào xạc. Bạn nhỏ vô cùng thích thú khi được du ngoạn trên sông bằng ca nô vào khu bảo tồn đầm dơi, ca nô lướt nhanh trên sông trong buổi chiều tà gió lồng lộng, hai bên sông là rừng ngập mặn xanh ngát, lác đác đó đây vài chiếc thuyền thả lưới đánh bắt cá của ngư dân đang lững lờ trôi. Đầm dơi rộng lớn mát lạnh, cả khu đầm vang lên âm thanh ríu rít của đàn dơi.

Các bạn nhỏ của tôi hãy cứ ngây thơ, hồn nhiên, hãy thỏa sức tưởng tượng và mơ ước rằng cuộc đời sẽ có nhiều điều tốt đẹp đi. Sau này khi trưởng thành bạn sẽ tự chiêm nghiệm rằng cuộc đời trong tưởng tượng và cuộc đời thực sao khác nhau nhiều quá! Bạn sẽ trải nghiệm những mùi vị ngọt bùi hay cay đắng của đời thực, những thành công hay va vấp thất bại sẽ cho bạn những suy ngẫm để trưởng thành, để nhìn cuộc đời với đôi mắt rộng lớn bao dung, để yêu người yêu mình hơn, và sẽ vẫn hồn nhiên và an lạc, bạn hỡi.



ĐỌC LẠI ANNA KARENINA

Anna Karenina là một bức tranh sống động về cuộc sống tư sản Nga gần cuối thế kỷ 19, về sa lông phòng khách, về giới thượng lưu, về bi kịch gia đình (giả dối, ghen tuông, ngoại tình), về đời sống nông thôn (điền trang, nông nô, cải cách ruộng đất, về quan hệ của người nông dân và ruộng đất...), về thiên nhiên, về đua ngựa, về săn bắn, về đời sống tôn giáo, bất bình đẳng giới tính, về hội họa, về chủ nghĩa quan liêu của bộ máy chính quyền.

Trên trang mở đầu cuốn truyện, có ghi một đề từ: "Việc báo oán thuộc về ta, chính ta lại ra ân đền bù lại", với ngụ ý: chúng ta không có quyền phán xét người đời, quyền đó thuộc về Chúa. Câu này gói ghém ý nghĩa khe khắt về luật pháp vô tình của Chúa Trời, nhưng mặt khác tỏ rõ tất cả lòng nhân đạo, rộng lượng của nhà văn với nhân vật chính. Ông muốn che chở Anna trước dư luận bất công của một xã hội ưa sống giả dối, quen chà đạp con người; ông không cho nó được quyền xét xử, vì chính nó là nguồn gốc gây ra tội lỗi. Và nếu Anna là tội nhân xúc phạm vào đạo đức, trật tự phong kiến thì đồng thời cũng là nạn nhân của lối sống giả nhân giả nghĩa. Nói vậy, không phải Anna hoàn toàn không có trách nhiệm về việc mình làm. Trong cái chết oan khiên của nàng đã mang ý nghĩa tính hậu quả không tránh khỏi của việc làm tội lỗi, về sự tự trừng phạt.

Cuốn truyện hình như chia làm hai đường dây nhân vật riêng rẽ:

một bên là Anna, Carenin, Vronxki, một bên là Kitti, Levin. Thực ra, ngay đến số phận riêng của các nhân vật khác cũng đều được bố trí theo một hướng thống nhất, để đóng góp vào việc trình bày và giải quyết vấn đề trung tâm cuốn truyện: tình yêu và hôn nhân, gia đình hạnh phúc hay bất hạnh. Coznusev, một người sống xa thực tế, chỉ chuyên chúi đầu vào sách vở và Varenca, một cô gái đức hạnh, mộ đạo, cả hai cuối cùng cũng phải trải qua thử thách với vấn đề hôn nhân. Từ Betxi Tverxcaia, Lidia Ivanovna, đến Xerpukhovxcoe đều luôn bàn đến chuyện gia đình, tuy không phải là chuyện chính. Rồi các gia đình Xviajxki, Trerbaxki Lvov đều được miêu tả đầy đủ.

Lối sống trụy lạc của Oblonxki làm gia đình lục đục, làm Doli, một người vợ chỉ biết có chồng và con, phải đau khổ, ghen tuông. Dưới vẻ bề ngoài đầy đủ, êm ấm, gia đình quý tộc đó đang tan vỡ hạnh phúc với những túng thiếu, xích mích và chán ghét nhau. Tình yêu khó đi đôi với tính ích kỷ. Hạnh phúc chỉ đến với những người quên mình mà yêu. Trong chừng mực nhất định, cặp vợ chồng Levin - Kitti có lẽ đạt tới hạnh phúc đó. Họ là những người thực thà, chín chắn và tình yêu của họ cũng phải trải qua những lầm lạc, hối hận, đau khổ. Họ yêu và trọng nhau, trầm lặng nhưng thắm thiết, vừa không ngừng tìm hiểu nhau và lo lắng đến bổn phận mỗi người. Kitti theo chồng về quê ở, gắng làm quen với lối sống của chồng và giúp đỡ chồng làm việc. Nàng hiểu thấu tình máu mủ của Levin, hết lòng săn sóc người anh chồng ốm nặng. Nhưng quý hơn cả là nàng hiểu tâm hồn chồng, một tâm hồn nàng cho là "tất cả cho người khác, không nghĩ gì đến mình", nhưng lại đang băn khoăn đi tìm lẽ sống, tìm chân lý.

Kitti là cô gái dịu dàng, ngây thơ, đang ao ước tình yêu sẽ đền đáp xứng đáng cho sắc đẹp tươi trẻ mình. Tất cả nỗi lòng nàng say sưa tin vào một hạnh phúc gia đình tốt đẹp. Vronxki đã phá hoại lòng tin đó, làm nàng từ đó nhìn đời chỉ thấy toàn xấu xa. Khi dưỡng bệnh ở suối nước nóng, Kitti gặp Varenca. Thoạt đầu, nàng cho cô bạn mới này là con người toàn vẹn, sống cuộc đời khác hẳn bọn thanh niên hời hợt.

Nàng khám phá ra một thế giới hoàn toàn mới mẻ: ngoài cuộc sống bản năng nàng vẫn sống từ trước đến nay, còn cuộc sống tinh thần khác, cao thượng và kỳ diệu hơn nhiều. Người ta đi vào cuộc sống đó bằng tôn giáo, khác hẳn thứ tôn giáo quen thuộc từ nhỏ với các buổi lễ ở nhà thờ hoặc học thuộc lòng Kinh thánh. Thứ tôn giáo này cao siêu, huyền bí hơn, gắn liền với các tư tưởng, tình cảm cao thượng, quên mình để yêu thương kẻ khác. Và Kitti đã bị Varenca cảm hoá, bắt chước bạn giúp đỡ kẻ nghèo, săn sóc người ốm, đọc kinh Phúc âm cho họ nghe. ở đây, Tolxtoi muốn đem lòng vị tha bác ái và đạo đức tự hoàn thiện bản thân để chứng minh rằng chỉ có tôn giáo mới cứu ta thoát khỏi mọi ràng buộc bản năng của xác thịt và tiến tới cuộc sống tinh thần cao quý hơn. Nhưng cũng chính ngòi bút hiện thực của nhà văn đã giới thiệu Varenca là người thế nào? Đó là một cô gái còn rất trẻ nhưng không có tuổi trẻ, giống đóa hoa đẹp còn nguyên cánh nhưng sớm tàn úa và không hương thơm, nhất là cô ta thiếu niềm hăng say đậm đà, quyến rũ trước đàn ông. Cô già trước tuổi, chỉ nghĩ đến bổn phận, không có nổi tiếng cười. Cuộc sống hoàn toàn lý trí đã giết chết đời sống tình cảm bình thường. Lòng cô yêu thương mọi người không tự nhiên, luôn phải cố gắng, gượng gạo: nó chỉ che đậy một sự thực là cô không có khả năng thực tâm yêu thương theo một tình cảm trần thế giữa người với người. Tất nhiên, với tính yêu đời nồng nàn, Kitti không thể nào trở thành một tiểu thư Varenca thứ hai được. Hơn nữa, con mắt thông minh của nàng cũng bất chợt thấy, sau tính tình "cao thượng", cuộc đời "cảm động", lời lẽ "dịu dàng" của Stan phu nhân là những dấu hiệu giả dối, bịa đặt, giảo quyệt của bà ta, lấy thú vui từ thiện làm một nguồn an ủi, một đồ trang sức. Kitti chỉ sống bằng trái tim mà không thể sống bằng nguyên tắc giáo lý như họ, chỉ thật tâm yêu người mà không thể lên mặt dạy người, cứu người! Nàng sẽ cứ là nàng, không thể đóng kịch trên sân khấu "thanh cao, thoát tục" như Stan phu nhân và cũng không thể là một Varenca khô héo, cằn cỗi. Qua lần thử thách này, cả thân thể lẫn tinh thần Kitti đều khỏe lại và nàng trở về với cuộc sống thực sự yêu đời, đứng ngoài mọi nguyên tắc giả nhân giả nghĩa.

Trong tuần trăng mật, Levin thầm trách Kitti là nông nổi, hèn mọn, ngoài chuyện nhà cửa, bếp nước, vá may ra thì không biết để ý đến một công việc gì đứng đắn, như quản lý trại ấp, xem xét nông dân, chơi nhạc, đọc sách. Nhưng chàng không hiểu vợ mình tự cho phép hưởng vài phút sung sướng, an nhàn đó là để sửa soạn gánh vác những nhiệm vụ rất nặng nề: làm chủ gia đình, làm vợ, làm mẹ. Cả cuộc đời Doli cũng hy sinh cho con cái: bà đem hết tâm sức ra nuôi nấng dạy dỗ, yêu thương chúng. Bà không hiểu nổi, thậm chí còn kinh ngạc, khiếp sợ khi thấy Anna không tự mình nuôi con và không dám đẻ nữa, để gìn giữ sắc đẹp, có thời giờ chiều chuộng người tình. Về mặt tinh thần, người mẹ bình thường đó hơn hẳn bao nhiêu người đàn bà ích kỷ khác. Cả hai chị em Doli và Kitti đều là những người có nữ tính tốt đẹp, trung thành với trách nhiệm người vợ, người mẹ. Nhà văn ra sức ca ngợi những con người đã sinh ra và giữ gìn cuộc sống trên trái đất này.

Tuy nhiên, những nhân vật trên của Tolxtoi có đời sống tinh thần quá eo hẹp. Họ không muốn bước chân ra khỏi ngưỡng cửa gia đình, không đòi hỏi, lo lắng gì mọi quyền lợi khác. Nhà văn cho rằng tâm tình mọi người đàn bà đứng đắn chỉ là "thờ chồng nuôi con". Ông phủ nhận vai trò người đàn bà trong xã hội, mặc dầu vẫn giải quyết vấn đề gia đình với quan niệm nó là một bộ phận chính hợp thành xã hội.

Dù sao Anna Carenina vẫn là cuốn tiểu thuyết xã hội, không phải tiểu thuyết "gia đình" kiểu châu Âu.


- Tất cả cái muôn màu muôn vẻ, tất cả cái huyền diệu, tất cả cái đẹp của cuộc đời đều do bóng tối và ánh sánh tạo nên.

- Cảm giác hụt hẫng, hoang mang, sợ hãi tương tự như người đang yên trí đi trên cầu qua vực thẳm, bỗng nhiên phát hiện ra cầu đã hư nát và dưới chân hiện ra cái vực thẳm đó. Cái vực, đó chính là cuộc đời thực: còn chiếc cầu, đó chính là cuộc đời giả tạo mà Aleixei( hay chúng ta?) đã sống?

- Levin: có lẽ vì tôi biết vui vì những gì tôi có mà tôi không hề buồn vì những gì còn thiếu.

- Về người nông thôn: sức mạnh thể xác, tính ôn hòa thẳng thắn, chân thực, tuy nhiên đầy tính bừa bãi, bẩn thiểu, rượu chè, tò mò cạnh khóe, hay tự ái, ít học

- Oblonxki: lạc thú không phải ở việc khám phá ra chân lí, mà trong việc tìm tòi.

- Anna nghĩ về chồng : tham công danh và mong ước thành đạt, những quan điểm cao thượng, lòng yêu học vấn, tôn giáo, tất cả những cái đó chỉ là phương tiện để đạt tới mục đích trên.

- Ngoài cuộc sống bản năng còn có đời sống tinh thần đó là con đường tôn giáo. Những tôn giáo cao thượng huyền bí, gắn liền với những tư tưởng và tình cảm cao cả. Chỉ có tình yêu và lòng tin mới mang đến những niềm an ủi cho những đau khổ của kiếp người. Ta chỉ cần biết quên mình và yêu mến người khác là được thanh thản, sung sướng và tốt đẹp.

- Cuộc đời không có tham vọng không phải là không đáng sống, mà nó sẽ chán phèo! Tuy nhiên, tham vọng không phải là điều duy nhất làm nên giá trị cuộc đời.

- Levin: mọi người đều phải chết. Tất cả chỉ là hão huyền. Thế giới ta đang sống chỉ là một lớp rêu mốc thếch trên bề mặt của một hành tinh nhỏ xíu mà thôi. Vậy mà ta cứ ngỡ là tư tưởng, hành động của ta cũng có tầm lớn lao nào đó. Đấy chỉ là những hạt cát mà thôi. Mọi thứ đã cũ rích từ đời hồng hoang, khi ta chết đi mọi thứ đều là hư vô!

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

THẾ GIỚI MỚI TƯƠI ĐẸP

(Tiểu thuyết của Aldous Huxley)

Cuốn tiểu thuyết hư cấu thuộc loại không tưởng đen này được viết vào năm 1931, là lời tiên tri tương đối chính xác về những khủng hoảng của nền văn minh hiện đại mà ta đang sống ở đầu thế kỷ 21 này. Ngày nay, những dây chuyền sản suất hàng hóa hàng loạt với tốc độ chóng mặt có thể cung cấp mọi nhu cầu tiêu dùng cho cư dân trên trái đất này, cung đã vượt nhu cầu cơ bản của loài người, giờ đây nó cung cấp thêm cho nhu cầu xa xỉ của một bộ phận cư dân giàu có. Điều ấy đã tạo ra nhiều hệ lụy về vấn nạn ô nhiễm môi trường, tài nguyên bị khai thác kiệt quệ, nạn bóc lột sức lao động diễn ra nhiều nơi (nhưng nó đang mang danh nghĩa tạo công ăn việc làm cho con người!), phần lớn công nhân trong những dây chuyền sản xuất thiếu thốn đời sống tinh thần. Họ làm gì có thời gian mà đọc sách (của Shakespeare!) hay những nhu cầu tinh thần khác như Huxley đã dự báo.

Harari (tác giả bộ Sapiens, Homo Deus, 21 bài học cho thế kỷ 21) cũng đã cảnh báo chúng ta về sự lệ thuộc của con người vào công nghệ AI hay công nghệ sinh học trong thời gian tới. Cuối cùng, trong thế giới văn minh, con người có hạnh phúc hơn không? Không dễ để trả lời câu hỏi này.

Dưới đây là trích lời giới thiệu của dich giả Hiếu Tân về cuốn sách thú vị này.

Gần một thế kỷ đi qua, tính tiên tri trong tiểu thuyết Thế giới mới tươi đẹp của Huxley đã làm sửng sốt nhiều thế hệ. Dưới hình thức viễn tưởng khoa học, cuốn tiểu thuyết không đơn thuần là tưởng tượng phóng túng của tác giả, đúng hơn, nó là một phép ngoại suy của một trí óc vượt tầm thời đại, từ cái hiện thực đang diễn ra trước mắt tới những xu hướng có thể có trong tương lai. Một xã hội hoàn chỉnh như trong truyện thì không thể có thật, ta gọi nó là không tưởng, và cái thực tại ảo mà nó biểu hiện khiến ta rùng mình sởn gáy về sự phi nhân tính của nó, nên cái không tưởng ấy ta gọi là không tưởng-đen (dystopia); nhưng từng khía cạnh của nó thường khi ló ra trong hiện thực không khỏi khiến ta giật mình. Cái hiện thực trong truyện không phải là tiếng khóc than của một nhân loại đói khổ và lầm than, như từ Dickens đến Tolstoy, từ Hugo đến Jack London, mà là tiếng cười đắc thắng của khoa học và công nghệ. Khi Huxley viết quyển sách này (1931), thì I.P. Pavlov (1849 – 1936), Henry Ford (1863 – 1947) và Sigmund Freud (1856 – 1939) đều là người đương thời với ông; sản xuất theo dây chuyền, phản xạ có điều kiện hay libido vẫn đang là thời sự mới mẻ. Tác phẩm của Huxley không “phản ánh hiện thực”; từ hiện thực, thậm chí từ những thời sự của ngày ấy, Huxley nghĩ về cái có thể đến trong tương lai. Những thành tựu khoa học rực rỡ quả là những ân sủng diệu kỳ mà loài người tự ban cho mình, nhưng chúng làm biến đổi bộ mặt loài người ra sao thì có ai dám chắc, chẳng hạn, khi quyền sử dụng chúng được đặt vào những bàn tay vô trách nhiệm? Diễn biến lịch sử đã chứng tỏ nỗi lo như thế không bao giờ là thừa cả. “Thế giới mới tươi đẹp” có tham vọng giải quyết những vấn đề lớn của loài người từ bao đời nay: Nhờ tiến bộ khoa học và công nghệ, nó cung cấp dư thừa của cải vật chất đảm bảo một cuộc sống tiện nghi thoải mái nhất, và nhằm đến cái đích cao nhất mà con người muốn đạt đến: Hạnh phúc! Mà lại là hạnh phúc cho tất cả mọi người! Nhưng hóa ra cái đích cao nhất ấy, hạnh phúc ấy, chỉ là thỏa mãn khoái lạc vật dục, vì xã hội chỉ có thể cung cấp đến đó, tiến bộ khoa học và vật chất dư thừa không mang lại văn hóa. Văn hóa và nghệ thuật cao cấp không tồn tại, nghệ thuật duy nhất là phim tình fili, một thứ giải trí thấp kém và dung tục. Tình dục chỉ có mục đích tiêu khiển (recreational sex). Các đẳng cấp cao thì thông minh nhưng cá tính sáng tạo phải bị triệt tiêu để bảo đảm cho xã hội ổn định, nghĩa là giữ nguyên ở một trạng thái, không thay đổi, không tiến hóa, không phát triển; bởi khả năng suy nghĩ độc lập của mỗi cá nhân chính là nhân tố thúc đẩy tiến bộ của loài người. Con người có thể hành động không suy nghĩ, vì đã được dẫn dắt bằng những châm ngôn học được trong lúc ngủ nằm sẵn trong tiềm thức; tự do ý chí của cá nhân bị ngăn chặn vì nguy hiểm cho xã hội. Các đẳng cấp thấp được điều kiện hóa trong những “Phòng Tiền định Vận mệnh”, để suốt đời mãn nguyện với địa vị của bản thân, khi kẻ nô lệ biết yêu thân phận nô lệ của mình thì xã hội ổn định. “Mỗi người thuộc về mọi người khác”, nên ngay trong “tình trường” cũng không có ghen tuông; không có chênh lệch trong hưởng thụ thì không có ganh tị, do đó cũng không có bất bình, xung đột, chiến tranh. Một xã hội như thế được tạo ra như một hệ khép kín sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nó là không tưởng, nhưng không phải vì thế mà không đập vào ý thức chúng ta như những cảnh báo mạnh mẽ: Trong mọi hình thức tàn phá hủy diệt, không gì đáng sợ hơn hủy diệt tính người.