LEV TOLSTOI
(Trích Đường Sống)
Nhưng niềm tin dị đoan về
cái chết còn trở nên rõ ràng hơn, không nói từ phương diện khác, mà chỉ xét từ
chính thực chất cuộc sống như chúng ta nhận thức về nó. Một người anh của tôi đã
từng sống như tôi, song bây giờ không còn sống như tôi đang sống nữa. Cuộc sống
của anh ấy từng là ý thức của anh ấy và nó đã diễn ra trong những điều kiện tồn
tại thể xác của anh ấy; có nghĩa là giờ đây không còn nơi chốn và thời gian cho
sự hiển lộ ý thức của anh ấy, và anh ấy không còn nữa đối với tôi. Anh tôi từng
tồn tại, tôi từng giao tiếp với anh tôi, nhưng bây giờ anh ấy không còn nữa, và
tôi sẽ không bao giờ biết được anh ấy ở đâu.
"Giữa anh ấy và chúng ta đã
bị cắt đứt mọi mối liên lạc. Anh ấy không còn nữa đối với chúng ta, và chúng ta
cũng sẽ không còn nữa đối với những ai ở lại sau ta. Đó là gì nếu không phải là
cái chết?" Những người không hiểu cuộc sống nói như vậy, họ nhìn thấy trong sự
chấm dứt giao tiếp bên ngoài một bằng chứng không thể hồ nghi nhất về cái chết
thực sự. Tuy nhiên, không ở đâu tính hư ảo của quan niệm về cái chết lại hiện ra
rõ ràng và hiển nhiên như là ở sự chấm dứt cuộc sống thân xác của những người
thân. Anh tôi đã chết, và chuyện gì đã xảy ra? Xảy ra chuyện là những biểu hiện
về mối quan hệ của anh ấy với thế giới từng khả thể đối với sự quan sát của tôi
trong không gian và thời gian nay đã biến mất khỏi tầm mắt tôi và không còn lại
gì cả.
"Không còn lại cái gì cả" -
con nhộng chưa nở thành bướm có lẽ sẽ nói như vậy khí nhìn thấy cái kén nằm bên
cạnh nó giờ đã rỗng không. Nhưng con nhộng có thể nói thế, nếu như nó có thể suy
nghĩ và nói được, bởi vì khi đã mất đi người bạn hàng xóm của mình, thì nó thực
sự sẽ không còn cảm thấy chút gì về bạn nó nữa. Nhưng điều đó không xảy ra với
con người. Anh tôi mất đi, cái kén của anh ấy, quả thật, giờ đã rỗng không, tôi
không thấy anh ấy dưới hình dạng mà trước đấy tôi thấy anh ấy nữa, nhưng sự biến
mất của anh khỏi mắt tôi không hủy diệt được quan hệ của tôi với anh ấy. Trong
tôi vẫn còn lại, như chúng ta nói, hồi ức về anh ấy.
Còn lại hồi ức - không phải
hồi ức về đôi tay, khuôn mặt, đôi mắt, mà là hồi ức về hình ảnh tinh thần của
anh ấy.
Hồi ức đó là cái gì? Một từ
thật đơn giản, dễ hiểu, như ta vẫn tưởng! Hình thức của các tinh thể, của các
con vật biến mất, và giữa chúng không thể có hồi ức về nhau. Còn tôi có hồi ức
về bạn tôi – anh tôi. Và cuộc sống của người bạn và người anh
của tôi càng tương hợp hơn với quy luật của trí tuệ, càng được biểu hiện nhiều
hơn trong tình yêu, thì hồi ức ấy lại càng sống động. Hồi ức ấy không phải chỉ
là sự hình dung, mà còn là một cái gì đấy tác động đến tôi y như cuộc sống của
anh tôi đã từng tác động đến tôi khi anh ấy còn tồn tại trên trần gian. Hồi ức
ấy chính là cái bầu không khí phi vật chất, vô hình của riêng anh tôi, bao quanh
cuộc sống của anh tôi và tác động tới tôi và tới những người khác khi anh ấy còn
tồn tại trong thân xác, hệt như nó tác động tới tôi cả sau khi anh ấy đã chết.
Hồi ức ấy đòi hỏi ở tôi bây giờ, sau khi anh ấy đã chết, vẫn những gì nó đã đòi
hỏi khi anh ấy còn sống. Hơn thế nữa, hồi ức ấy sau khi anh ấy đã chết trở nên
bức bách đối vói tôi hơn là khi anh ấy còn sống. Lực sống từng có trong anh tôi
không những không mất đi, không suy giảm, không nguyên như cũ, mà thậm chí nó
gia tăng và tác động tới tôi mạnh hơn trước kia.
Lực sống của anh tôi sau cái
chết thân xác vẫn tác động y như thế thậm chí còn mạnh hơn so với trước khi chết
và tác động như là tất cả những gì sống động thực sự. Vậy trên cơ sở nào, trong
khi tôi vẫn cảm thấy trên bản thân mình cái lực sống ấy, y như khi anh tôi còn
tồn tại trong thân xác, hay là cái quan hệ ấy của anh với thế giới, mà nó đã
giúp tôi hiểu rõ quan hệ của mình với thế giới - trên cơ sở nào tôi có thể khẳng
định rằng người anh đã qua đời của tôi không còn sự sống nữa? Tôi có thể nói
rằng anh ấy đã bước ra khỏi mối quan hệ cấp thấp hơn đối với thế giới, mà với tư
cách một sinh vật, anh từng, còn tôi thì đang ở trong đó - tất cả chỉ có thế
thôi; tôi có thể nói rằng tôi không thấy trung tâm của mối quan hệ mới với thế
giới mà hiện giờ anh đang ở trong đó; nhưng tôi không thể phủ định sự sống của
anh, bởi vì tôi cảm thấy trên bản thân mình sức mạnh của nó. Qua gương phản
chiếu tôi từng thấy một người đang đỡ tôi; tấm gương phản chiếu đã mờ đi. Tôi
không nhìn thấy người ấy đỡ tôi như thế nào nữa, nhưng bằng tất cả con người,
tôi cảm thấy anh ta vẫn đỡ tôi như cũ, và như vậy anh ta vẫn tồn tại.
Song còn hơn thế nữa, cuộc
sống của người anh đã mất của tôi, mà tôi không thể thấy được nữa, không chỉ tác
động, mà nó còn thâm nhập vào tôi. Cái tôi sống động đặc thù của anh ấy, quan hệ
của anh ấy với thế giới trở thành quan hệ của tôi với thế giới. Dường như bằng
sự thiết lập quan hệ với thế giới anh đã nâng tôi lên nấc thang mà anh đang đứng
trên đó; và tôi, cái tôi sống động đặc thù của tôi, cảm thấy rõ hơn nấc thang
tiếp theo mà anh đã bước lên; tuy đã ẩn kín trước mắt tôi, nhưng anh vẫn tự lôi
kéo tôi theo anh. Tôi nhận thức như vậy về cuộc sống của người anh đã yên ngủ
bằng cái chết thân xác và vì thế tôi không thể nghi ngờ về nó; và qụan sát những
tác động đến thế giới của cuộc sống đã biến mất khỏi tầm mắt tôi, tôi tin tường
chắc chắn vào tính hữu thực của cuộc sống không còn hiển hiện trước mắt tôi ấy.
Con người chết đi, nhưng quan hệ của anh ta với thế giới tiếp tục tác động đến
những người khác, thậm chí không phải như khi anh ta còn sống, mà còn mạnh mẽ
hơn vô vàn lần, và sự tác động ấy gia tăng theo mức độ gia tăng của trí tuệ và
tình yêu và tiếp tục lớn lên như tất cả những gì đang sống, không bao giờ ngừng,
và gián đoạn.
Đức Kitô đã chết rất lâu, và
sự tồn tại thân xác của Ngài rất ngắn ngủi, và chúng ta không hình dung được rõ
ràng về cơ thể bằng xương bằng thịt của Ngài, nhưng sức mạnh cuộc sống trong trí
tuệ và tình yêu của Ngài, quan hệ của Ngài với thế giới thì không mảy may khác
đi, nó tác động đến tận bây giờ tới hàng triệu người đang tiếp nhận quan hệ đó
của Ngài với thế giới và sống bằng nó. Tại sao nó vẫn tác động? Đó là cái gì vậy
- cái mà trước kia từng gắn liền với tồn tại thân xác của Đức Kitô và bây giờ
làm nên sự tiếp tục và phát triển vẫn cuộc sống ấy của Ngài? Chúng ta nói: đó
không phải là cuộc sống của Đức Kitô, mà là hậu quả của nó. Và nói xong những
lời vô nghĩa ấy, chúng ta tưởng là vừa nói ra một cái gì đó rõ ràng hơn và xác
định hơn điều khẳng định rằng sức mạnh ấy là chính Đức Kitô hằng sống. Bởi lẽ
những con kiến từng kiếm mồi bên một quả sồi, mà nay đã mọc lên và trở thành một
cây sồi cũng tương tự như vậy; quả sồi đã mọc và đã trở thành một cây sồi đâm rễ
tứ tung xuống đất, trút xuống đất các cành khô, lá cây, những quả sồi mới, che
nắng che mưa, làm đổi thay tất cả những gì sống quanh nó. "Đó không phải là cuộc
sống của quả sồi" - những con kiến sẽ nói - "mà là những hậu quả cuộc sống của
nó, còn cuộc sống ấy thì đã kết thúc khi chúng tôi tha quả sồi ấy và thả xuống
một cái lỗ."
Anh tôi đã chết hôm qua hay
hàng nghìn năm về trước, song sức mạnh cuộc sống của anh ấy, như nó từng tác
động khi anh ấy còn sống bằng xương bằng thịt sẽ tiếp tục tác động còn mạnh mẽ
hơn nữa trong tôi và trong hàng trăm, hàng nghìn, hàng triệu con người, mặc dù
trung tâm của cái sức mạnh mà tôi từng nhìn thấy khi anh còn tồn tại trong thể
xác tạm thời đã biến mất khỏi mắt tôi. Điều ấy có nghĩa là gì? Tôi nhìn thấy ánh
sáng từ đám cỏ đang cháy trước mặt. Đám cỏ ấy lụi đi, nhưng ánh sáng càng bùng
lên: tôi không thấy được nguyên nhân của ánh sang ấy, tôi không biết cái gì đang
cháy, nhưng có thể kết luận rằng vẫn ngọn lửa đã thiêu cháy đám cỏ, bây giờ đang
thiêu cháy tiếp cánh rừng xa xa, hay một cái gì đấy mà tôi không thể trông thấy.
Nhưng đó là thứ ánh sáng mà tôi không chỉ thấy nó lúc này, nó là thứ duy nhất
dẫn đường chỉ lối và mang lại cho tôi cuộc sống. Tôi sống bằng ánh sáng đó. Thế
thì làm sao tôi có thể phủ định nó? Tôi có thể nghĩ rằng sức mạnh của cuộc sống
ấy bây giờ đã có một trung tâm khác mà tôi không thấy được. Nhưng phủ định nó
thì tôi không thể, bởi vì tôi cảm thấy nó, vận động và sống bằng nó. Cái trung
tâm ấy là thế nào, sức mạnh ấy tự thân nó ra sao, tôi không thể biết - tôi có
thể phỏng đoán, nếu như tôi thích phỏng đoán và không sợ nhầm lẫn. Song nếu tôi
muốn tìm đích thị một sự trí hội về cuộc sống, thì tôi sẽ chỉ thỏa mãn với những
hiểu biết rõ ràng, chắc chắn, và tôi không muốn làm hỏng sự hiểu biết rõ ràng,
chắc chắn ấy bởi ảnh hưởng của những phỏng đoán tùy tiện và khả nghi. Với tôi
thế là đủ nếu tôi biết rằng tất cả những gì cho tôi cuộc sống đều được tạo ra từ
cuộc sống của những người sống trước tôi và đã chết từ lâu, và vì thế bất kì một
ai tuân theo quy luật của cuộc sống, buộc cá thể sinh vật của mình tuân phục trí
tuệ và thể hiện sức mạnh của tình yêu, đều đã và đang sống trong những người
khác sau khi cuộc sinh tồn trong thân xác của họ biến mất - thì niềm tin dị đoan
nhảm nhí và khủng khiếp về cái chết sẽ không bao giờ giày vò tôi nữa.
Ở những người để lại sau
mình cái sức mạnh vẫn tiếp tục hoạt động, chúng ta có thể quan sát thêm một
điều, ấy là vì lẽ gì, sau khi đã buộc được cái cá thể của mình quy phục tuân
theo trí tuệ và hiến mình cho cuộc sống của tình yêu, họ không bao giờ nghi ngờ
và không thể nghi ngờ về sự bất khả hủy diệt của cuộc sống.
Trong cuộc sống của những
người ấy, chúng ta có thể tìm thấy cơ sở của niềm tin nơi họ vào sự bất tận của
cuộc sống và sau đó, khi đi sâu vào cuộc sống của chính bản thân mình, thì chúng
ta cũng sẽ tìm ra ở ngay trong mình những cơ sở ấy. Đức Kitô nói rằng Ngài sẽ
sống sau khi bóng ma của cuộc sống biến mất. Ngài nói thế là vì ngay khi còn tồn
tại trong thân xác, Ngài đã bước vào một cuộc sống đích thực, cuộc sống ấy không
thể chấm dứt. Ngài đã sống trong tồn tại thân xác của mình dưới những tia sáng
tỏa ra từ một trung tâm sống khác mà Ngài đang đi đến đó, và sinh thời đã nhìn
thấy những tia sáng ấy soi sáng cho những người xung quanh Ngài như thế nào. Bất
kì ai chối từ cái cá thể và sống bằng cuộc sống của trí tuệ và tình yêu cũng đều
nhận thấy chính điều đó.
Dù phạm vi hoạt động của con
người có hạn hẹp đến đâu - dẫu là Đức Kitô, hay Socrates, hay một cụ già vô danh
tốt bụng và đầy lòng hi sinh, hay một chàng trai, một phụ nữ - nếu họ sống mà
biết khước từ cái cá thể vì hạnh phúc của những người khác, thì ngay ở đây,
trong cuộc sống này họ đã bước vào mối quan hệ
mới với thế giới mà trong đó không có cái chết và việc thiết lập quan hệ ấy là
công việc của cả đời đối với tất cả mọi người.
Một người nhận ra cuộc sống của mình trong việc tuân theo luật
của trí tuệ và thể hiện tình yêu ắt nhìn thấy trong cuộc sống ấy, một mặt, là
những tia sáng của trung tâm mới của sự sống mà anh ta đang đi tới đó, mặt khác,
là tác động mà ánh sáng ấy chiếu rọi qua anh ta, gây ra cho những người xung
quanh. Và điều đó mang tới cho anh ta niềm tin chắc chắn vào sự không suy tàn,
bất tử và gia tăng vĩnh cửu của cuộc sống. Không thể tiếp nhận niềm tin vào sự
bất tử từ một người nào đấy, cũng không thể tự thuyết phục mình về sự bất tử. Để
có được niềm tin vào sự bất tử, cần phải có sự
bất tử, mà để có được sự bất tử, cần phải hiểu cuộc sống của mình bất tử ở chỗ
nào. Chỉ ai đã thực hiện xong công việc của cả đời mình, đã thiết lập trong cuộc
đời ấy quan hệ mới với thế giới mà mối quan hệ ấy đã không còn xếp gọn được
trong con người anh ta - chỉ người ấy mới có thể tin vào cuộc sống tương
lai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét